Giáo hoàng Giáo_hoàng_Giuliô_II

Một cuộc bầu cử chớp nhoáng, hầu như mọi người đồng ý (37/38 người bỏ phiếu) nhưng không khỏi có sự mua chuộc, đã đưa hồng y Giuliô de la Rovère, 60 tuổi, lên ngôi Giáo hoàng ngày 1 tháng 11 năm 1503. Người ta cho rằng ông đã mua chức vị Giáo hoàng, vì ông là Hồng y giàu nhất, thâu lợi tức rất lớn do nhiều địa phận Giám mục và nhiều bất động sản của Hội Thánh.

Về mặt chính trị

Ông có đức tính cương trực, nóng nảy thế tục. Sự khát vọng quyền bính cho ngôi Giáo hoàng và sự ham thích nghệ thuật là hai yếu tố thúc đẩy ông làm việc không biết mệt mỏi. Nhiệm vụ chủ chăn Giáo hội bị đặt xuống hàng thứ yếu.

Sau những năm bị dòng tộc Borgia thống trị, vị tân Giáo hoàng hiến mình cho công việc giải phóng Tòa Thánh về phương diện chính trị và củng cố uy quyền thiêng liêng của mình trên sức mạnh quân sự. Ông chuyên tâm mở rộng đất đai của Tòa thánh và không ngần ngại thực hiện những vụ phản bội và ám sát chính trị.

Là nhà chính trị, ông đã loại được César Borgia – con cả của Giáo hoàng Alexander VI - bằng cách trục xuất ông ta ra khổi hồng y đoàn, buộc César phải trả lại các chiến lũy và trốn qua nước Pháp. Trong một chiến dịch do ông đích thân cầm quân, đã tái chiếm được Perusa và Bolonia (1506) lúc đó đang do Bentivoglio chiếm giữ. Ông tự phóng thích mình khỏi quyền lực của Venise (Liên minh Cambrai, 1508).

Việc gia nhập liên minh Cambarai gồm có hoàng đế Maximilian I (1493-1519), nước Pháp, Tây Ban Nha và một vài nước khác đã giúp ông thu hồi tỉnh Romania (1509). Ông tuyên cáo một sắc chỉ rút phép thông công Venise ngày 27 tháng 4 năm 1509. Quân Pháp chiến thắng ở Agnadel ngày 14 tháng 5 năm 1509. Lo lắng về những sự lớn mạnh của Louis XII, Giáo hoàng biểu lộ ý muốn đuổi những người nước ngoài ra khỏi Italia.

Giáo hoàng giải hòa với Venise sau khi trả lại Faenza và Ravenna tháng 2 năm 1510; liên kết với hồng y của Sion là Matheu Schiner, đối thủ của người Pháp và là người đang hoạt động trên các bang của Thụy Sĩ.

Sau đó, đức Julius II dấn thân vào một công việc vô cùng nguy hiểm là đánh đuổi người Pháp đang chiếm đóng thành Milan ra khỏi nước Ý. Các vệ sĩ Thuỵ Sĩ được Julius II làm thành một đội quân chính thức.

Trước hết, ông thanh toàn Alfonso Este, chồng của Lucrecia Borgia, quận công xứ Ferrara và là đồng minh của nước Pháp. Vua Louis XII (1495-1415) nước Pháp ra tay đối phó bằng việc truyền cho quốc dân của mình cắt liên lạc với Roma và họp công đồng tại thành Tours (1510) chống Julius II.

Công đồng 1512

Mùa thu năm 1511, năm hồng y bất mãn cùng họp công đồng Pisa và đứng về phe vua nước Pháp. Kế đó, thêm hoàng đế Maximilian I, là người bấy giờ có tham vọng được hồng y đoàn bầu làm Giáo hoàng khi đức Julius II lâm bệnh nặng vào tháng 8 năm 1511.

Một vài giáo sĩ và thái tử thúc giục các Giáo hoàng tổ chức công đồng để canh tân Giáo hội. Sau nhiều lần do dự, vì sợ rằng công đồng sẽ cướp quyền của đức Giáo hoàng hoặc sợ bị nhà cầm quyền dân sự kiểm soát. Nhưng đứng trước tình thế trên và nhớ lại lời hứa tại hội đồng tuyển cử năm 1503, là trong vòng hai năm sẽ triệu tập đại công đồng. Cuối cùng Ðức Giáo hoàng Julius II quyết định triệu tập Công Ðồng Latêranô V ở Rôma năm 1512.

Công đồng Chung XVIII. Công đồng khai mạc ngày 23.5.1512 quy tụ 15 hồng y và 79 Giám mục phần nhiều người Ý, ngoài ra có vua nước Anh và Aragon, đến sau thêm hoàng đế Maximilian. Sự triệu tập Công đồng Latran V của ông vào năm 1512 có lẽ đã có thể cho phép ông canh tân Giáo hội, lên án các lạm dụng trong Giáo hội và đề ra một dự án cải tổ, nhưng không kết quả.

Trong công đồng này đã lên án thuyết thượng tôn công đồng (concilliarisme) đồng thời lên án nhóm hồng y "ly khai" họp ở Pisa, bây giờ đã chuyển sang Milan. Công đồng bế mạc tháng 3-1517, thì ngày 31-10 năm đó, Luther niêm yết bản 95 đề tài chống ân xá tại nhà thờ Wittenberg.

Xây dựng và nghệ thuât

Giáo hoàng Julius II đặt viên đá đầu tiên cho Ðền Thánh Phêrô ở Rôma và thuê Bernini, Raphael, và Michaelangelo - những nghệ nhân vĩ đại của thế giới thời ấy- cung cấp các tác phẩm điêu khắc, hội họa, kiến trúc cho thánh đường. Tuy nhiên, phí tổn lớn lao này đã khiến các Giáo hoàng không còn lưu tâm đến tình hình tâm linh kiệt quệ của Giáo hội.

Cho đến năm 1506, nhà thờ St Peter, nhà thờ chính ở Vatican vẫn còn rất nhỏ và ọp ẹp. Học theo các hoàng đế và sultan, Giáo hoàng Julius II quyết định tạo cho nhà thờ xưa cũ một mái vòm. Ông thuê kiến trúc sư Donato Bramante làm việc này. Ý tưởng của Bramante khá đơn giản: một chữ thập kiểu Hy Lạp với những cánh toả ra chung quanh mái vòm trung tâm. Nhưng cả Bramante lẫn Giáo hoàng đều qua đời trước khi công trình được hoàn thành. Năm 1546, một chàng nghệ sĩ trẻ từ Florence có tên Michelangelo được toàn quyền xây nhà thờ St Peter, nhà thờ lớn nhất của đạo Thiên chúa giáo.

Michelangelo đã thiết kế lên một mái vòm khiến cho công trình Pantheon gần đó cũng phải lu mờ. Về đường kính thì nó nhỏ hơn Pantheon, nhưng cao hơn nhiều. Làm gần như hoàn toàn bằng đá nặng, công trình vòm có đường kính 42 m và chiều cao 138 m. Để đỡ được một mái vòm khổng lồ như thế, các thợ xây phải đặt 3 vòng sắt bên trong lớp đá của mái vòng. Công trình được hoàn thành vào năm Tuy nhiên, về sau những vết rạn đã xuất hiện xung quanh chân mái vòm. Đến thế kỷ 16, các kỹ sư của Vatican phải thêm vài vòng đỡ khác, trong một đợt sửa chữa khẩn cấp. May sao, giải pháp này đã đương đầu được với thời gian.

Giuliô II cho xuất bản một bản phê bình tác phẩm Dante và tập hợp thành một sưu tập lớn các thủ bản. Ông đã cho thành lập hiệu cầm đồ (pawnshop).